Đây là lời thật, chuyện thật viết ra từ điển của Thái tử Ngô Tuấn Kiệt với 513 câu và đã có thỉnh ý ơn trên lộ cơ.
Riêng cá nhân Thái Tử Thiên Tuấn Kiệt không hề tự cao, tự mãn.
A Di Đà Phật.
Điển Thi kể chuyện:
Khoảng năm mười mấy tuổi (tính tuổi Việt khoảng 14 tuổi, tuổi Mỹ thì 12 tuổi) đi vượt biên, lúc đó Mẹ Mẫu thấy chú Kiệt lênh đênh trên biển bị Hải Tặc Thái Lan bắt nhốt. Bắt đầu Mẹ lấy kính hiển vi nhìn xuống trần, từ đó bài Kính Thiên số 1 được ra đời.
Tại lúc đó hiện lên trên biển Đông là mấy ông Rồng ở đảo Nam Du nhờ duyên đó mà biển yên sóng lặng. Lúc Mẹ ra bài Kính Thiên số 1 là đi trước ngài Địa Tạng, hai bên rất nhiều thiên tướng với nhiều vị Bồ Tát Chư Thiên.
Trong cuộc đời chú Kiệt, tuy chú sinh ra là người thường nhưng mà ở trên lúc nào cũng có Mẹ dõi theo, giấu đi hào quang của chú vì nếu Thiên Ma biết được nó sẽ đánh.
Ở Bài Kính Thiên số 1, Mẹ đã thấy chú Kiệt dường như đã không qua khỏi vì dáng người nhỏ xíu, ốm yếu vì ở Việt Nam thiếu thốn mọi bề, không có thức ăn, phải lao động vất vả nên hàng xóm gọi là Kiệt “giò điện”.
Con nào có biết con là con Thiên!
Khi chú Kiệt sinh ra ở thế gian chú hoàn toàn không biết mình là ai, ở trên nhắc nhở chú rồi từ đó cái lại gia thức khơi lại tất cả những tài năng, những cái đã học của chú từ nhiều ngàn đời ngàn kiếp, ở từ những hành tinh khác trên trời và xuống thế gian rồi chú mới kết nó lại để áp dụng cho cái đời hiện tại này để mà làm việc.
Như quý vị thấy một bác sĩ mà ra trường hay một kỹ sư họ cũng đã có năng khiếu từ hồi tiền kiếp rồi thì học rất là dễ dàng. Có những người học đàn vài giờ là biết đánh nhưng cũng có những người học hoài không đánh được. Việt Nam mình dùng chữ “Tối Dạ”, “Sáng Dạ” để nói về điều này.
Thức là ghi nhớ hết những cái mình học hỏi và áp dụng vào thực tế.
Đại hội chư Thánh tại đồi Long Sơn
Núi Thiên Long Sơn năm 14, lần đầu tiên mấy Chư vị hội họp cho quả địa cầu xoay chuyển theo kết thúc cái hạ ngươn là lúc đó Cha về sáng bừng cả một cái vùng trời trên đỉnh Thiên Long Sơn.
Kính thiên Mẹ chiếu cho con
Kính Thiên chứ không phải kinh thiên, nhiều người tưởng là cúng trên trời nhưng thật ra là kính là nhìn xuống là Mẹ đang nhìn xuống Thái tử và và dõi theo Ngài.
Kính thiên Mẹ chiếu dẫn đường con đi
Chú Kiệt như được sinh ra lần hai vì có Mẹ và các Chư Thiên thần thánh hộ mệnh. Bắt đầu với sứ mệnh đem những kiến thức để chỉ dạy mọi người về lịch sử của Việt Nam, về Phật học và cả chính trị. Có ngài Trần Hưng Đạo là vua, có ngài Nguyễn Trung Trực, ngài Nguyễn Thái Học, ngài Trần Quang Khải, vua Quang Trung. Những vị đó là hồn thiêng sông núi nước Việt. Dân chúng mà của thời Phật Di Lặc họ sẽ thông minh hơn lịch sự hơn hiền hơn, biết đạo đức, biết gì đúng gì sai
Năm 1965, ngoài Bắc, Mỹ bỏ bom B52, miền Trung đánh xa lộ tử thần, miền Nam thì đầm già cán gáo từ ở Thốt Nốt bay về tại vùng kinh làng thứ bảy của Tháp Vàng thì ngày nào cũng bị bỏ bom với cán gáo bắn khiến mấy căn nhà lá cháy hết. Lúc đó mẹ chú Kiệt mang bầu chú 9 tháng vẫn phải chạy giặc tới trạm xá, chú được sinh ra ngay chỗ ở để lánh nạn chạy giặc.
Năm 1975, chú Kiệt bắt đầu đi mua 10 công đất ở Mỹ Lâm để làm ruộng mà nhà chỉ có hai cha con lúc đó chú khoảng 11, 12 tuổi. Tối ngày, chú phải ở ngoài ruộng trồng mía, trồng lúa, đi cấy.
Năm 1979, chú rời quê nhà, trên tàu vượt biển có 46 người mà người ở Rạch Giá chỉ có vài gia đình, còn lại là dân Sài Gòn, lúc trên thuyền nước vô nửa ghe không có ai tát nước chỉ có chú Kiệt tát suốt ngày suốt đêm nếu mà ngưng thì thuyền sẽ chìm tại không ai còn sức để tát nước nữa. Lúc này, trên thuyền không khí vô cùng ảm đạm, mọi người ai nấy cũng khóc thảm thiết, kêu than thảm sầu. Từ nhỏ chú Kiệt đã biết niệm Phật, hai tay khấn lạy bỗng chú Kiệt đang nằm thấy Mẹ Quan Âm hiện xuống đã cứu mọi người lúc nguy.
Tàu tiếp tục chạy được từ sáng tới chiều thì bị tàu Thái dí cướp hội đồng trong hai ba ngày, hai ba đêm. Tàu mình bị đập hết máy, lấy hết la bàn không xác định được phương hướng, bắt đầu canh mấy thằng kia ăn chơi ngủ say sưa rồi mình mới bò lên trên cabin để mà ăn cắp la bàn để có phương hướng, làm được cái gì trong lúc đó thì họ cứ làm.
Lâu sau tàu Thái lại sấn vào tàu nhỏ của mình, tự nhiên như có bàn tay bưng lấy chiếc tàu né ra một bên, sau hai lần như vậy tưởng nó sẽ tha nhưng không lần thứ ba nó sấn hết tốc độ khói đen xịt lên nhưng bàn tay vô hình bỗng lại đưa chiếc thuyền mình lên cao hơn, những người trên thuyền lại được cứu nạn một lần nữa.
Sau đó khoảng vài tiếng đồng hồ, thấy xa xa có ống khói đen chiếc tàu Thái khác chạy tới, nó biết chiếc tàu này bị cướp hết rồi. Trong tàu Thái có ông nói tiếng Tiều, tàu của chú Kiệt cũng có ông biết nói tiếng Tiều thì lúc này ông kia đưa cái nón ra ở trong tàu mình ai còn nhẫn hay là dây chuyền móc ra hết đưa cho nó rồi nó mới kéo tàu mình vô bờ giúp.
Khi vô được đến bờ, những người Thái mới đi nấu cháo để những người phụ nữ yếu sức ăn, những ngày ở bãi biển không có gì để đắp, sau này mới được cái mền là cái thùng giấy thì ở đó được khoảng 30 ngày. Sau này chuyển vô một cái làng ở đó khoảng 60 ngày không có thấy Liên Hợp Quốc, cũng không có thấy cái gì gọi là Luật pháp, những người con gái bụi đời mới hi sinh đi cặp bồ với trai Thái để xin cơm về nuôi cả tàu.
Khi đi vượt biên chú cũng phải đi xếp hàng xin đồ ăn đem về, những bát cháo nóng mọi người giành nhau đổ bỏng cả tay, lúc đó chú Kiệt không có thuốc đỏ hay bất cứ thứ gì để khử trùng.
Thuở đó vất vả đến nỗi không có đồ ăn vặt như kem hay bánh kẹo để ăn, không được quan tâm đến nỗi cơ thể chú bị thiếu chất ngọt trầm trọng.
Nghi Xuân là hình ảnh người chị nuôi em gái cũng giống như hình ảnh chú Kiệt đi xin cơm nguội, vượt hàng rào Thái Lan đi mua rượu cho mấy người trong trại để có tiền nuôi em chú.
Trong trại tị nạn, chú thậm chí không có đồ để thay, một bộ mặc hoài suốt mấy tháng chỉ có mỗi cái quần cụt với cái quần dài bằng chất liệu kaki rất khó để khô nên mỗi lần may mắn mà tắm lúc 10 giờ sáng đi qua đi lại khoảng 4-5 tiếng thì nó mới khô. Cuộc sống chú ngày đó vất vả không tiền tiếp tế, không được sự quan tâm, chăm lo.
Sau 8, 9 tháng ở Thái Lan thì chú bị đẩy qua Nam Dương 3 tháng để học Tiếng Anh và cách sống ở Mỹ. Ở đó sát rừng tối ngày chú lại vào rừng hái xoài, khế, có lần chú bị lạc trong rừng thì những chú khỉ chạy theo vây quanh, tiếng kêu của chúng nghe rợn người, đáng sợ.
Năm 1981, Nam Dương chuyển trại qua Singapore để qua Mỹ. Ở Singapore, lần đầu tiên chú được thấy xe bus, thấy mọi người đá banh cảm xúc vô cùng vui sướng lạ thường. Ở đó khoảng 2 tuần, mỗi ngày Mỹ cho 2 đồng tiền Singapore để sử dụng.
Thủy Long Công Chúa là một người hạ phàm đặc biệt, vừa mới 14 ngày sinh đã biết nói chuyện. Trong khoảng thời gian 6 tháng mang thai, cơ thể người Mẹ rất gầy gò, ốm yếu, người con mới vô bụng để giữ cái xác cho Mẹ để cho Mẹ khỏe. Từ đó, người con không gặp được Cha nữa nhưng tối đến người Cha lúc nào cũng nằm mơ thấy Con đang nói chuyện với mình.
Năm 2014, Cơ trời bắt đầu chuyển cho ngày tận thế, tất cả các vị Phật ở Việt Nam cầm thánh chỉ của Cha đọc xuống. Lúc đó, tất cả các Chư vị mới bắt đầu về dạy dỗ mà thời đó mọi người không có tin, sau đó, con người chú Kiệt thay đổi khác hơn. Từ đó đến ngày hôm nay, chú Kiệt mỗi một ngày được “Điển” của Cha Mẹ cho có trí sáng, có tiền để độ chúng sanh và để có được Đạo Thiên Tâm ra đời năm 2017 tới ngày hôm nay.
Năm 2010, chú bị thương, Mỹ mới đưa vào bệnh viện để thay hết máu thì mới cứu được, lúc đó Mẹ lấy cọng tóc của Mẹ nối vô trong đầu chú Kiệt. Chú lớn lên trong cõi trần cũng rất nhiều ô trượt, cũng làm nhiều chuyện không đúng mà muốn thành Thiên là phải trải qua cuộc giải phẫu thì nó mới giống DNA của người thế gian thì “thay hồn đổi xác” là như vậy.
Chân dung của Mẹ được vẽ bằng bút chì từ một người chị, chị đó được Mẹ cho “Điển” của Mẹ sau đó chị mơ mơ màng màng họa nên bức chân dung về Mẹ. Hai chân dung của Thượng đế và Cha Mẹ cho chúng ta, cho nhân loại thời nay để tu, để lạy. Cha thực sự không có hình tướng, Cha là Thượng đế tạo ra vũ trụ, Mẹ là Phật Mẫu tuy vô hình vô tướng nhưng Mẹ muốn ra tướng nào cũng được. Tướng trên chính là đặc ân của người Việt Nam vì chú Kiệt đầu thai kiếp này là người Việt.
Năm 2015, ở San Francisco những nhà địa chấn của Mỹ nói sẽ xảy ra trận động đất, khoảng thời gian đó Cali cũng gặp phải hạn hán không có nước, chú Kiệt là người biết Thiên cơ mới xin Cha xin Mẹ, sau đó Cha ra lệnh cho Xích Long và Bạch Long xuống hộ với xác phàm. Thánh Cha thánh Mẹ mới giảm sự động đất lại từ năm 2015 đến 2023 nhưng mà thành phố Bắc Cali đối xử rất tệ bạc với Thượng đế, với núi Thiên Long Sơn, vì thế trong tương lai không biết thành phố này sẽ ra sao.
Núi Thiên Long Sơn có Long, Lân, Quy, Phụng và có 18 vị La Hán ẩn mình trong núi, đôi khi mấy vị sẽ hiện cho người phàm thấy. “Thoạt đi, thoạt về” chính là trên trời mấy vị Chư Thiên hay đi về núi Thiên Long Sơn để du ngoạn.
Những năm đầu 2014, chú Kiệt làm khu công giáo trên núi Thiên Long Sơn. Thánh Chúa xuất hiện đưa Thánh Peter là đệ tử lớn nhất của chúa GiêSu tới mới dạy chú Kiệt lấy cây thánh giá sau đó cắt khúc nhỏ rào lại một khu đó dành cho người bên thế giới tâm linh. Sau đó, khoảng một trăm mười mấy người Thánh Tử Đạo mới đến núi Thiên Long Sơn để xin một chỗ để làm miếu để mấy vị thường trực.
Có lần, biết mình là Thiên tử chú bị anh em, bạn bè cười chê, trên dọc đường đi về chú Kiệt mới thấy đám mây trắng, dày đặc, chú vào đó và gặp được Phật, lúc đó ngài bảo quỳ xuống, ngài giảng pháp cho nghe, Phật giảng cho chú Kiệt 4 bài giảng. Bài thứ nhất Phật nói: Con chưa làm xong nhiệm vụ, cũng không chịu khổ. Ta ngày xưa làm hết lòng vì chúng sanh, thân xác của ta cũng bỏ lại hết mà họ còn chưa vừa lòng. Con phải xuống mà phải chịu khổ, trong kinh thì nói là “ Phổ độ chúng sanh”, Phật nói khổ độ mới được chứ không phải là Phổ độ.
Sau đó, chú Kiệt mới đi xuống, Phật kêu một bà già cho chú một trái đào, thả xuống cho chú ăn, chú mới giật mình nhớ lại lời Phật nói là khổ độ.
Những năm đầu, thiên ma hay đến để quấy phá, lúc đó “hồn lìa khỏi xác” Mẹ với Phật bà Quan Âm mới cho hồn trở vô lại, sau này Cha mới bổ sung cho chú mấy vị hộ pháp để tăng thêm sức mạnh.
Chú Kiệt dự định về Việt Nam làm tháp để rước hết tất cả vong linh tận thế để họ có nơi cư ngụ, lo tu tập nhưng thiên ma không có cho. Có lần, chú đã thấy ở hướng Đông Bắc có cầu thang mở ra chính là cổng thiên đình.
Một buổi tối tại chợ đêm ở Phú Quốc, chú đọc “Chú Vãng Sanh” bỗng hôm sau những con hải sâm vốn không thuộc vùng biển đó mà nó lại chết, vì nó có phước nó nghe được tiếng chú Kiệt vãng sanh cho nó,từ đó chú mới biết chú có thần lực. Mấy vị nói khi chú Kiệt thương ai hay giận ai thì mấy vị vô hình cũng làm ảnh hưởng tới người đó.
Khi chú Kiệt về Việt Nam chú đi từ Nam tới Bắc, mấy vị nói với chú cố gắng đi nhiều chùa, nhiều miếu, chỗ nào có bước chân chú Kiệt thì chỗ đó sẽ linh thiêng, mấy Chư thần sẽ về ngự lại.
Trong một đêm khuya thức dậy, bỗng xuất hiện trong đầu chú Kiệt rất nhiều dòng chữ, thế là chú đã viết nên một bài thơ khoảng ngàn câu chỉ vỏn vẹn trong vòng 1 đến 2 giờ đồng hồ nhưng khi Mẹ đọc và được sự chỉnh sửa của Mẹ bài thơ được ra đời với 513 câu về tiểu sử cuộc đời chú Ngô Tuấn Kiệt.